Gdp Nước Mỹ Năm 2021

Gdp Nước Mỹ Năm 2021

(Thanh tra) - Ngày 29/9, Tổng cục Thống kê cho biết, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2021 ước tính giảm 6,17% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý đến nay.

(Thanh tra) - Ngày 29/9, Tổng cục Thống kê cho biết, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2021 ước tính giảm 6,17% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý đến nay.

GDP các nước bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào?

GDP chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, tuy nhiên có 03 yếu tố chính ảnh hưởng nhiều nhất đến chỉ số GDP các nước bao gồm:

Dân số là nguồn cung cấp lao động để tạo ra của cải vật chất và cũng là đối tượng tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ được tạo ra.

Dân số và GDP có mối quan hệ tác động qua lại không thể tách rời. Dân số chính là một trong những yếu tố không thể thiếu để tính GDP bình quân đầu người.

(2) FDI: FDI (Foreign Direct Investment) là chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI bao gồm tiền, phương tiện sản xuất, cơ sở hạ tầng...

Lạm phát là sự tăng giá chung một cách liên tục của hàng hóa, dịch vụ theo thời gian và thể hiện sự mất giá trị của một loại tiền tệ.

Một quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao thì phải chấp nhận lạm phát. Tuy nhiên, khi lạm phát cao quá mức cho phép sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, vì vậy nhà nước luôn phải có các chính sách để kiểm soát lạm phát.

Khi học tập tại Mỹ, ngoài học phí, du học sinh còn phải trả các chi phí khác gồm lệ phí, tiền ăn ở, sinh hoạt, phí dịch vụ. Trang US News and World report nghiên cứu, tổng chi phí học tập tại các đại học Mỹ vào năm học 2020 – 2021 và công bố kết quả vào ngày 02/12. Và dưới đây là danh sách thống kê Top 15 trường đại học có chi phí “rẻ nhất” nước Mỹ để các du học sinh lựa chọn được trường học phù hợp với khả năng tài chính của mình.

Năm 2020 – 2021, chi phí học tập tại Đại học Brigham Young, xếp hạng 80 nước Mỹ, chỉ 13.000 USD, hơn 10 trường khác không đến 26.000 USD.

Top 15 trường đại học Mỹ có học phí rẻ

Đại học Brigham Young ở Provo có chi phí năm học 2020-2021 (gồm học phí, lệ phí, tiền ăn ở, sinh hoạt) rẻ nhất nước Mỹ, chỉ 13.778 USD (khoảng 320 triệu đồng). Mức này bằng một nửa Đại học Western Michigan, trường đứng top 15, và rẻ hơn Đại học William Carey xếp thứ hai đến gần 5.000 USD.

Đại học Brigham Young cũng có tỷ lệ sinh viên quốc tế tốt nghiệp sau 6 năm tương đối cao – 70%. Ngoài ra, trường cũng có thứ hạng cao nhất trong top 15 khi xếp thứ 80 của nhóm các đại học quốc gia.

Góp mặt tại vị trí thứ ba, Đại học Delta State có chi phí học tập chưa đến 19.000 USD. Tuy nhiên, trường chỉ có 110 du học sinh theo học và 38% trong số đó tốt nghiệp sau 6 năm. Số lượng du học sinh của trường chỉ cao hơn trường thấp nhất, Đại học Minnesora Morris, 4 sinh viên.

Đứng thứ sáu, California State là trường duy nhất trong danh sách có số sinh viên quốc tế trên 1.000. Tuy nhiên, tỷ lệ du học sinh tốt nghiệp Đại học California State sau 6 năm chỉ 44%, thấp thứ ba trong 15 trường.

Đại học Western Michigan đứng thứ 15, chi phí năm học 2020-2021 là 26.608 (khoảng 615 triệu đồng). Trường xếp hạng 258 trong nhóm đại học quốc gia, có gần 1.000 sinh viên quốc tế theo học và tỷ lệ tốt nghiệp 68%.

Nguồn: US News and World report

Tư vấn du học GSE – Đại diện tuyển sinh chính thức của 1000+ các trường đại học, cao đẳng và trung học tại Hà Lan, Anh Quốc, Ireland, Úc, New Zealand, Mỹ và Canada.

Để được hỗ trợ thông tin về du học Mỹ năm 2021, vui lòng liên hệ tới các chuyên gia của Tư vấn du học GSE tại số hotline 1900 7211 hoặc điền thông tin vào form dưới đây:

Theo bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, mặc dù GDP quý 4/2021 bật tăng trở lại ở mức 5,22% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn tốc độ tăng 4,61% của năm 2020) nhưng GDP cả năm 2021 chỉ tăng 2,58%.

“Đà phục hồi của quý 4/2021 chỉ đủ bù đắp một phần mức giảm sâu của quý 3/2021 do những ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch tới nền kinh tế. Do vậy, GDP năm 2021 ước tính chỉ tăng 2,58%”, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết.

Đáng chú ý, trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực dịch vụ đã “nhích khẽ” trở lại sau quý 4/2021 phục hồi ấn tượng; theo đó, tăng trưởng dịch vụ cả năm đạt 1,22%. Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản và khu vực công nghiệp – xây dựng tiếp tục là trụ đỡ cho nền kinh tế với mức tăng lần lượt là 2,9% và 4,05%.

Trong khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực. Ngành nông nghiệp tăng 3,18%, ngành lâm nghiệp tăng 3,88% và ngành thủy sản tăng 1,73%.

Trong khu vực công nghiệp - xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, ngành xây dựng tăng 0,63%... Trong khi đó, ngành khai khoáng giảm 6,21% và khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%.

Đặc biệt, theo Tổng cục Thống kê, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4/2021 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch vụ. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế.

Theo đó, ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành vận tải kho bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm.

Trái lại, một số ngành vẫn có tốc độ tăng cao như ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.

Cũng theo Tổng cục Thống kê, về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%.

Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,09% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,16%.

Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2021 ước tính đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2021 tăng 4,71% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).

GDP quý 4 ước tính tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, tuy cao hơn tốc độ tăng 4,6% của năm 2020 nhưng thấp hơn tốc độ tăng của quý 4 các năm 2011-2019.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2021 ước tính tăng 2,58% so với cùng kỳ năm trước do dịch COVID-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý 3 nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Đây là một thành công lớn của Việt Nam trong việc phòng chống dịch bệnh, duy trì sản xuất-kinh doanh.

Nội dung trên được Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, bà Nguyễn Thị Hương thông tin tại buổi họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế-xã hội quý 4 và năm 2021, ngày 29/12.

GDP quý 4 tăng thấp nhất so với giai đoạn 2011-2019

Theo bà Hương, GDP quý 4 ước tính tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, tuy cao hơn tốc độ tăng 4,6% của năm 2020 nhưng thấp hơn tốc độ tăng của quý 4 các năm 2011-2019.

Trong số đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng gần 3,2%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,6%, khu vực dịch vụ tăng 5,4%. Về sử dụng GDP trong quý, tiêu dùng cuối cùng tăng gần 3,9% so với cùng kỳ năm trước và tích lũy tài sản tăng 3,4%, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,3%, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 11,4%.

Như vậy, cả năm 2021 tăng trưởng GDP đạt 2,58% (trong đó quý 1 tăng 4,7%; quý 2 tăng 6,7%; quý 3 giảm 6,0% và quý 4 tăng 5,2%). Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp gần 14% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,8% và khu vực dịch vụ tăng 1,2%, đóng góp 22,2%.

Bà Hương cho biết trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất của phần lớn cây trồng đạt khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực. Nhờ vậy, ngành nông nghiệp tăng 3,2%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế và ngành lâm nghiệp tăng 3,9%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm, ngành thủy sản tăng 1,7%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng xấp xỉ 6,8%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,2%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm, ngành khai khoáng giảm 6,2%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm và ngành xây dựng tăng 0,6%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Bà Hương nhấn mạnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng Tư đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch vụ. Theo đó, một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã tăng trưởng âm và điều này làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ cũng như toàn bộ nền kinh tế.

Cụ thể, ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,2% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành vận tải kho bãi giảm 5,0%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm và ngành dịch vụ lưu trú-ăn uống giảm mạnh 20,8%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm.

Tuy nhiên, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,8%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,4%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm và ngành thông tin và truyền thông tăng gần 6%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.

“Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,4%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,9%, khu vực dịch vụ chiếm 41% và thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) chiếm 8,8%. Về sử dụng GDP cả năm, tiêu dùng cuối cùng tăng 2% so, tích lũy tài sản tăng 4%, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14% và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16%,” bà Hương cho hay.

Theo đó, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2021 ước tính đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2021 tăng 4,7% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26%, cao hơn mức 25% của năm 2020).

Theo bà  Hương, kinh tế-xã hội năm 2021 của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi, hầu hết các nước đẩy mạnh chương trình tiêm chủng vaccine phòng chống COVID-19 nhưng sự xuất hiện các biến chủng mới khiến quá trình phục hồi kinh tế có dấu hiệu chậm lại.

Vừa qua, Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 5,9% vào năm 2021. Bên cạnh đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Liên minh châu Âu, Fitch Ratings, Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển cũng nhận định tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2021 lần lượt đạt 5,6%, 5,8%, 5,7% và 5,3%. Trên thị trường quốc tế, giá nhiều mặt hàng tăng mạnh so với năm 2020, lạm phát gia tăng nhưng nhìn chung vẫn được kiểm soát trên toàn thế giới. Hơn nữa, đại dịch đã gây tắc nghẽn trong chuỗi giá trị toàn cầu làm tăng giá nguyên liệu sản xuất là thách thức không nhỏ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các quốc gia.

Trong nước, làn sóng dịch COVID-19 bùng phát từ cuối tháng Tư với biến chủng mới có tốc độ lây lan nhanh chóng, nguy hiểm diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương, đặc biệt tại các địa phương kinh tế trọng điểm như Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Cần Thơ… đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, an toàn của người dân và phát triển kinh tế-xã hội.

“Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo thống nhất của cả hệ thống chính trị và sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành những quyết sách kịp thời để phòng, chống dịch và phát triển kinh tế-xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10 về ban hành quy định tạm thời ‘thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19,’ cùng với các chính sách bảo đảm an sinh xã hội cùng sự đồng lòng, nhất trí của các cấp, các ngành, các địa phương, sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, đã giúp kinh tế-xã hội trong nước đạt được kết quả  đáng khích lệ như trên,” bà Hương đánh giá./.