Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.
Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.
Có thể nói trong 10 năm trở lại đây, mặc dù có một số biến động song nhìn chung lượng FDI trên toàn thế giới có xu hướng tăng. Năm 1997, con số này vào khoảng 400 tỷ USD với khoảng 70% vào các nước công nghiệp phát triển.Theo cơ quan thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), năm 1998, tổng lượng FDI đạt 430 tỷ USD, tăng gần 10% so với năm 1997 nhưng luồng vốn vào các nước đang phát triển lại giảm xuống còn 111 tỷ USD so với 117 tỷ của năm 1997.
Trong khu vực châu á, mức độ cạnh tranh để thu hút trở nên rất gay gắt. Trong số các nước đang phát triển, Trung Quốc là nước thành công nhất với lượng đầu tư thu hút trung bình chiếm tới một nửa tổng số vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là sự hấp dẫn của một thị trường rộng lớn và cải cách kinh tế đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong những năm qua. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á, năm 1998 là năm đầu tiên kể từ năm 1985 tổng vốn vào khu vực này tuy đã giảm nhưng không nhiều. Trong đó, khả năng ứng phó dẫn đến mức độ ảnh hưởng của từng nước là khác nhau. Indonesia và Philippines đứng đầu danh sách nhóm nước suy giảm nguồn vốn FDI, trong khi đó Hàn Quốc và Thái Lan, mặc dù chịu nhiều tác động của cuộc khủng hoảng nhất, song vẫn duy trì được lượng vốn lớn. Trên thực tế hai quốc gia này đã tiến hành những cải cách sâu rộng, đã được đánh giá là thành công cả trên bình diện nền kinh tế vĩ mô nói chung và môi trường đầu tư nói riêng.Năm 1998, vốn FDI đăng ký của Thái Lan là 5,9 tỷ USD so với 3,6 tỷ năm 1997 và của Hàn Quốc lần lượt là 4,7 tỷ USD và 3,6 tỷ USD. Cuộc khủng hoảng này cũng làm giảm rõ rệt nguồn cung cấp FDI từ hai quốc gia cung cấp FDI lớn của châu Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Nics khác.
Từ vài thập niên trở lại đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần không nhỏ trong quá trình tăng trưởng của nhiều nước trong đó có cả sự thần kỳ châu Á. Sự bùng nổ đầu tư và thương mại ở tất cả các vùng trên thế giới trong mấy năm gần đây là các nhân tố chính góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế ngày một lan rộng . Khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã trở thành một điểm sáng trên bản đồ phân bổ đầu tư của thế giới với nhiều lợi thế về lao động , nguồn lực mà các nhà đầu tư coi là rất có triển vọng và đặt nhiều niềm tin. Về lâu dài, chúng ta cần phải gắn việc cải cách môi trường đầu tư với cải cách toàn bộ nền kinh tế. Việc làm này có tác dụng mạnh mẽ hơn so với việc ưu đãi và khuyến khích riêng lẻ cho các nhà đầu tư (chủ yếu chỉ để giữ chân các nhà đầu tư trước chuyển dịch lợi thế cạnh tranh giữa các nước). Cải cách môi trường đầu tư sẽ chỉ là một phần trong việc cải cách cơ cấu kinh tế và có thu hút được nhiều FDI hay không phụ thuộc vào kết quả của những nỗ lực cải cách ấy. Cần phải thấy rằng nếu chỉ cải thiện theo hướng tốt hơn so với trước là chưa đủ. Các nhà đầu tư sẽ chỉ đầu tư khi cho rằng các điều kiện của môi trường đã đủ tốt đối với họ và có thể đem lại lợi nhuận.
Sự ổn định chính trị – xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của Việt Nam trong việc hội nhập với khu vực và thế giới và những lợi thế vốn có về tài nguyên , con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư của Việt Nam. Như vậy chúng ta cần biết tận dụng và phát huy những lợi thế Việt Nam vẫn sẽ là một thị trường hấp dẫn và có nhiều cơ hội đầu tư.
FDI – Nguồn vốn đầu tư phát triển quan trọng
Thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ trương quan trọng của Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện thành công đường lối đổi mới, phát triển kinh tế xã hội. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Từ năm 1987 đến nay, sau hơn 10 năm kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các mặt kinh tế – xã hội. Luật Đầu tư nước ngoài ban hành năm 1987 đã mở ra một chương mới trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Hơn mười năm qua khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh, từng bước khẳng định vị trí của mình như là một bộ phận năng động của nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng cao và đóng góp ngày càng lớn vào phát triển kinh tế đất nước và thành công chung của công cuộc đổi mới.
Từ khi “Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” có hiệu lực cho đến hết tháng 12/1999, nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 2766 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 37055,66 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp phép cho 230 dự án với mức 3087,97 triệu USD vốn đăng ký.
Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng nhanh từ năm 1988 đến năm 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký.Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng vốn đăng ký tăng vọt là do có hai dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ USD/2 dự án). Đối với nền kinh tế có quy mô như của nước ta thì đâu là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như “chất xúc tác điều kiện” để việc đầu tư của ta đạt hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ năm 1991-1999 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 26,51% và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên qua các năm. Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối bền vững theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một trong vai trò quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp đặc biệt đối với các nước đang phát triển là chuyển giao công nghệ và thiết bị cho nước nhận đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài thường góp vốn bằng bí quyết, công nghệ của mình hoặc của nước mình và sử dụng trong các doanh nghiệp có đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Dòng FDI đến Việt Nam từ nhiều nước và khu vực trên thế giới. Đến 30/04/1998 có 59 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ và đặc điểm nhân văn khác nhau, đã và đang làm đa dạng hoá kỹ thuật công nghệ còn nghèo nàn của Việt Nam. Đa số thiết bị công nghệ đưa vào Việt Nam thông qua FDI thuộc loại trung bình của thế giới, tiên tiến hơn thiết bị hiện có. Điều này có thể được giải thích do các đối tác nước ngoài lớn nhất chủ yếu là Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc . Có thể nói sự hoạt động của đồng vốn có nguồn gốc từ đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một trong những động lực gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước. Một số chuyên gia kinh tế tính toán rằng cứ một đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động sẽ làm cho bốn đồng vốn trong nước hoạt động theo. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
FDI với phát triển ngành, vùng kinh tế quan trọng
Đầu tư nước ngoài trực tiếp đến nay đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực, ngay cả những ngành và lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ tiên tiến như thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, giao thông đường bộ , cấp nước, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, hàng điện tử, sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng và thực phẩm với chất lượng cao. Việc này giúp Việt Nam không mất nhiều năm tự mày mò tìm kiếm mà vẫn phát triển được các ngành, lĩnh vực mới, rút ngắn được khoảng cách công nghệ với thế giới và khu vực.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm trong nước cũng có xu hướng tăng lên tương đối ổn định (năm 1995 = 6,3%; năm 1996 = 7,39%; năm 1997 = 9,07%; năm 1998 = 10,12%; năm 1999 = 10,3%) (Theo Tạp chí Nghiên cứu kinh tế tháng 9/2000)
Công nghiệp – Ngành kinh tế quan trọng và trực tiếp liên quan đến kỹ thuật công nghệ của toàn bộ nền kinh tế , thu hút được nhiều và ngày càng tăng về số dự án và vốn FDI. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tưng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp.
Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí hàng đầu, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra. Trong công nghiệp chế biến,tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng. Trong đó, ở một số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như sau: 71% trong ngành sản xuất sửa chữa xe có động cơ; 44,3% trong ngành sản xuất san phẩm bằng da và giả da;100% trong ngành sản xuất tụ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa không khí… 67,6% trong ngành sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông, 31% trong ngành sản xuất kim loại; 22,2% trong ngành sản xuất thiết bị điện, điện tử; 20,1% trong ngành sản xuất hoá chất; 19,1% trong ngành sản xuất may mặc;18,1% trong ngành dệt. (Theo Tạp chí Nghiên cứu kinh tế tháng 9/2000) (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Các công nghệ đang được sử dụng trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, hoá chất,… đều thuộc loại công nghệ hiện đại và các công nghệ này thực sự đã góp phần tạo nên bước ngoặt tích cực trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Đa số công nghệ sử dụng trong các ngành công nghệ điện tử, hoá chất, ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng đều là những dây chuyền tự động hoá tương đối hiện đại. Một số sản phẩm điện tử, vi mạch được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến. Các khách sạn, văn phòng cho thuê đều được trang bị các thiết bị hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Đối với ngành nông nghiệp: tính đến nay, con 221 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động trong ngành nông nghiệp với tổng số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hoá. Vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu như trước đây đầu tư nông nghiệp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chế biến gỗ, lâm sản… thì những năm gần đây nhiều dự án đã đầu tư vào lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy, chăn nuôi…
Việc tập trung đầu tư FDI vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tạo được tốc độ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, tuy nhiên đối với những nước nông nghiệp như Việt Nam nếu chỉ tập trung đầu tư vào công nghiệp và dịch vụ sẽ không tạo cơ sở cho tăng trưởng bền vững. Điều này cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc làm và thất nghiệp không chỉ ở nông thôn mà ngay cả ở đô thị.
Đến nay khu vực có FDI đang phát triển và đóng vai trò quan trọng trong phát triển tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.Khu vực này đã sử dụng lao động và các nguồn lực khác trong nước và tạo ra những năng lực mới cho nền kinh tế, góp phần vào tăng trưởng trong nước và tạo ra những năng lực mới cho nền kinh tế, đóng góp vào ngân sách, kim ngạch xuất khẩu. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Hoạt động của các dự án FDI tạo ra số lượng lớn chỗ làm việc có thu nhập cao đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam
Tính đến ngày 31/12/1999, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đã tạo ra cho Việt Nam khoảng 296.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp (bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan). Như vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước – đây là một kết quả nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp nước ngoài là 70 USD/tháng (tương đương 980000 đồng) bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc… đúng với yêu cầu của lao động làm việc trong nền sản xuất hiện đại, trong một số lĩnh vực còn có yêu cầu đối với lực lượng lao động phải có trình độ cao về tay nghề, học vấn, ngoại ngữ..Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện , nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện được tuyển chọn vào làm việc tại các doanh nghiệp này. Theo đánh giá của một số chuyên gia về lao động cho thấy, đến nay, ngoại trừ một số ít lao động bỏ việc do mâu thuẫn với giới chủ, một số khác bị thải loại do không đáp ứng được yêu cầu chủ yếu do tay nghề yếu, số công nhân hiện còn làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến.
Sự phản ứng dây chuyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước trên thị trường lao động là nhân tố thúc đẩy lực lượng lao động trẻ tự đào tạo một cách tích cực và có hiệu quả hơn, cũng như góp phần hình thành cho người lao động Việt Nam nói chung một tâm lý tuân thủ nền nếp làm việc theo tác phong công nghiệp hiện đại có kỷ luật. (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Về đội ngũ các cán bộ quản lý, kinh doanh: trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp giỏi có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi , đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức, kinh doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả, đây chính là điều kiện tốt một mặt để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý; mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy, dù không muốn thì các nhà đầu tư nước ngoài vẫn phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam.Đến nay chúng ta có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Họ chủ yếu là những kỹ sư trẻ, có trình độ có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và đủ khả năng để tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại thậm chí cả bí quyết kỹ thuật.
FDI thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế thế giới
Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thực hiện dự án đầu tư đã trở thành “cầu nối”, là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật công nghệ mạnh của thế giới.
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị trường ở nước ngoài.Đối với những hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vô hình chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành bạn hàng của Việt Nam . Nhờ có những lợi thế trong hoạt động của thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn tốc độ tăng KNXK của cả nước và cao hơn hẳn KNXK của các doanh nghiệp trong nước (năm 1996 KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 78,6% so với năm trước, thì KNXK của cả nước tăng 33,2%, còn KNXK của các doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 29,5%; số liệu tương ứng của năm 1997: 127,7%; 26,6%;14%; năm 1998 là:10,7%; 2,4%; 1,8%; năm 1999 là: 30,2%; 23%; 21,1%. Về số tuyệt đối,KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng lên một cách đáng kể trong các năm:nếu năm 1992 đạt 52 triệu USD , năm 1995 đạt 440,1 triệu USD,năm 1996 đạt 786 triệu USD, năm 1997 đạt 1790 triệu USD, năm 1998 đạt 1982 triệu USD thì năm 1999 đạt tới 2577 triệu USD. Như vậy KNXK của các doanh nghiệp loại này đạt được trong năm 1999 bằng 5,8 lần của năm 1995 và bằng 49 lần của năm 1992.Về chủng loại hàng hoá xuất khẩu , nếu không kể cả dầu thô, ưu điểm hơn hẳn của hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với hàng hoá xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước ở chỗ chúng chủ yếu là hàng công nghiệp chế biến và chế tạo, trong đó có nhiều sản phẩm thuộc công nghệ cao như bảng mạch in điện tử, máy thu hình,… (Theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế tháng 5/2000). (Tiểu Luận: Xuất khẩu tư bản ở Việt Nam)
Tóm lại, hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa qua đã góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá. Đôí với Việt Nam, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò như một lực khởi động, như một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn , có nguy cơ phá sản. Không những thế, nó còn góp phần hình thành nhiều ngành nghề sản xuất mới, cũng như nhiều sản phẩm mới. Vì khả năng thu hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả sản xuất kinh doanh nên các nhà đầu tư nước ngoài thường tính toán cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa vào Việt Nam những thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại hoặc ở mức thấp nhất cũng còn có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những kênh đưa ra nền kinh tế Việt Nam hội nhập tương đối có hiệu quả. Là khu vực hấp dẫn, tạo ta nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Là điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.